GIAO BAN CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH, CHUYỂN ĐỔI SỐ ĐỀ ÁN 06 THÁNG 4/2024 VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHỈ SỐ ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CẤP ĐỊA PHƯƠNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

Chiều ngày 09 tháng 5 năm 2024, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức Phiên họp giao ban về công tác chuyển đổi số, cải cách hành chính, Đề án 06 tỉnh Quý II/2024 và kết quả thực hiện Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương trên địa bàn tỉnh. Tham dự cuộc họp có Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đăng Bình, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Duy Hưng; các Thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ công tác giúp việc Ban Chỉ đạo về Chuyển đổi số tỉnh; Thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc Ban Chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh; Thành viên Tổ công tác, Tổ giúp việc Đề án 06 tỉnh và lãnh đạo các sở, ban, ngành của tỉnh. Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đăng Bình chủ trì cuộc họp.

Tại cuộc họp, đại diện lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông (cơ quan thường trực công tác Chuyển đổi số tỉnh), lãnh đạo Công an tỉnh (cơ quan thường trực triển khai Đề án 06 trên địa bàn tỉnh) và lãnh đạo Sở Nội vụ (cơ quan thường trực Cải cách hành chính tỉnh) đã báo cáo các nội dung báo cáo, dự thảo kế hoạch liên quan đến công tác chuyển đổi số, cải cách hành chính và thực hiện Đề án 06 trên địa bàn tỉnh; lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ trình bày báo cáo tóm tắt về Kết quả Chỉ số Đổi mới sáng tạo (PII) tỉnh Bắc Kạn năm 2023.

Ảnh: Toàn cảnh phiên họp

Trong công tác chuyển đổi số, tỉnh đã duy trì tốt hoạt động của các phần mềm dùng chung cũng như các hệ thống thông tin, CSDL chuyên ngành. Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh đã tiếp nhận và xử lý 39.415 Hồ sơ giải quyết TTHC; cung cấp 1.063 DVCTT toàn trình (đạt 61% trên tổng số TTHC, đạt 83% trên tổng số DVCTT); có  29.835 hồ sơ phát sinh trực tuyến (đạt 75,7% trên tổng số hồ sơ TTHC, 85,8% trên tổng số hồ sơ của các DVCTT). Tỷ lệ thanh toán trực tuyến trên cổng DVCQG đạt 17,38%. Phần mềm quản lý văn bản và điều hành IOffice đã phát sinh 237.206 giao dịch gửi-nhận văn bản, 100% văn bản có bản gửi dưới dạng điện tử. Hệ thống thông tin quản lý cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của tỉnh đã được cập nhật thông tin, dữ liệu phát sinh và đồng bộ dữ liệu của 100% cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của tỉnh về Cơ sở dữ liệu quốc gia do Bộ Nội vụ quản lý, góp phần quan trọng trong công tác quản lý và khai thác dữ liệu thống nhất chung toàn quốc. Các hệ thống chuyên ngành về thông tin dữ liệu về công tác dân tộc, Hệ thống thông tin, CSDL ngành tài nguyên và môi trường, CSDL đất đai, Hệ thống thông tin tiền lương …. tiếp tục được duy trì cập nhật thông tin, dữ liệu và khai thác sử dụng.

Hoạt động kinh tế số, xã hội số nổi bật với Tỷ lệ người dân (từ 14 tuổi trở lên) có tài khoản định danh điện tử đạt 58,7%; chi lương hưu và trợ cấp BHXH hằng tháng qua tài khoản cá nhân: 3.134/11.000 trường hợp (đạt tỷ lệ 28,40%); 361/425 trường hợp hưởng chế độ BHXH một lần (đạt tỷ lệ 84,9%) và tỷ lệ người hưởng trợ cấp thất nghiệp qua tài khoản cá nhân đạt 100%; Tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt khai tại Bệnh viện đa khoa tỉnh, Trung tâm Y tếcác huyện, thành phố Bắc Kạn, đạt từ 20-25% tổng thanh toán.

Mô hình hỗ trợ chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh tại 02 HTX Toàn Dân, xã Nam Cường, huyện Chợ Đồn và HTX Thành Đạt, xã Hiệp Lực, huyện Ngân Sơn. Tất cả các nội dung hỗ trợ (đèn chiếu sáng giả lập sáng mặt trời, hệ thống tưới tự động, hệ thống quạt đối lưu, các cảm biến ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm đất, độ ẩm không khí …) đều được điều khiển tự động qua điện thoại thông minh, có thể giúp chủ thể, hợp tác xã kiểm soát, chủ động điều khiển hệ thống mọi lúc, mọi nơi. Cho đến nay, mô hình đang tiếp tục phát huy hiệu quả, được các đơn vị thụ hưởng, địa phương đánh giá cao. Hiện nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thông đang tiếp tục triển khai thực hiện Mô hình hỗ trợ chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới, hướng tới nông thôn mới thông minh năm 2024 bằng kinh phí được cấp từ nguồn chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Từ đầu năm 2024, Cục Thuế tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác chuyển đổi số đặc biệt là việc sử dụng hoá đơn điện tử. Cục Thuế và các Chi cục Thuế đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các đơn vị kinh doanh xăng dầu thực hiện hoá đơn điện tử theo từng lần bán đối với mặt hàng xăng dầu. Tổ chức 01 buổi Hội nghị triển khai, tập huấn (tháng 01/2024) cho tất cả các đơn vị kinh doanh xăng dầu trên địa bàn thực hiện. Đến nay, 100% doanh nghiệp, tổ chức đều thực hiện khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế bằng phương thức điện tử; 1.313/1.313  (tỷ lệ 100%) tổ chức, doanh nghiệp, HTX đã thực hiện đăng ký hóa đơn điện tử trên hệ thống (trong đó, số lượng doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh là 904 đơn vị, đạt tỷ lệ 100% đơn vị đăng ký hóa đơn điện tử trên hệ thống và 100% doanh nghiệp nộp thuế điện tử)

Ảnh: Lãnh đạo Sở Thông tin và Truyền thông – Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo
 về Chuyển đổi số tỉnh phát biểu tại phiên họp

Bên cạnh kết quả đạt được, trong công tác chuyển đổi số vẫn còn những tồn tại, hạn chế, vướng mắc như: Tỉnh hiện còn 42 thôn, bản chưa phủ sóng thông tin di động (trong đó có 3 thôn, bản chưa có điện lưới); việc bố trí kinh phí dành cho đầu tư, hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin còn hạn chế, quy mô triển khai còn nhỏ lẻ; một số máy tính, thiết bị CNTT của một số sở, ngành, huyện, thành phố, công an các cấp có cấu hình cũ, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu sử dụng. Về nhân lực số, nguồn nhân lực phụ trách hoạt động chuyển đổi số tại một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu: chưa có chuyên môn sâu về CNTT, chưa có đủ kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển ứng dụng CNTT nhất là lĩnh vực an ninh mạng, an toàn thông tin. Về nền tảng, dữ liệu số, đến nay tỉnh chưa hoàn thành việc xây dựng riêng Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp tỉnh (LGSP), do đó, chưa thúc đẩy được việc kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin, CSDL do tỉnh triển khai xây dựng. Còn 07 dịch vụ đã được các bộ ngành cung cấp trên Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP) nhưng tỉnh chưa thực hiện kết nối đến Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh; việc kết nối, chia sẻ và đưa vào khai thác sử dụng các dịch vụ chia sẻ dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin có phạm vi từ Trung ương đến địa phương còn chậm, chưa khai thác sử dụng một cách đồng bộ, hiệu quả. Các hệ thống thông tin, CSDL của tỉnh cũng chưa được kết nối với nhau nhằm tạo thuận lợi cho người dùng trong việc chia sẻ, sử dụng lại thông tin, giảm bớt thao tác cho cán bộ, công chức, viên chức. Một số hệ thống thông tin, CSDL chưa được cập nhật đầy đủ, kịp thời thông tin, dữ liệu, do đó, dữ liệu chưa đầy đủ, chưa chuẩn xác, chưa đảm bảo giá trị khai thác và sử dụng, đồng thời, gây khó khăn, phức tạp khi cần tổng hợp thông tin, dữ liệu (dữ liệu trên các hệ thống không đủ tin cậy nên không sử dụng được, phải yêu cầu các đơn vị, địa phương cung cấp lại bằng văn bản, …). Một số hệ thống thông tin, CSDL, trang/cổng thông tin điện tử các đơn vị được xây dựng từ lâu, không đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn, chức năng, an toàn bảo mật hiện nay. Tỷ lệ hồ sơ thanh toán trực tuyến qua cổng dịch vụ công quốc gia còn thấp so với tỷ lệ trung bình của cả nước; kỹ năng số của người dân, nhất là người dân sinh sống ở khu vực vùng sâu, vùng xa còn hạn chế; người dân chưa thực sự quan tâm đến việc tự đảm bảo an toàn thông tin trên môi trường mạng. Hoạt động của Tổ Công nghệ số cộng đồng cấp xã, thôn chưa hiệu quả. Hoạt động kinh tế số của tỉnh chưa đa dạng.

Về  kết quả chỉ số Cải cách hành chính (PAR INDEX) năm 2023 do Bộ Nội vụ công bố, tỉnh Bắc Kạn đạt 84,24/100 điểm, xếp vị trí 57/63 tỉnh, thành phố tăng 4,89 điểm và tăng 04 bậc so với năm 2022 (năm 2022, xếp vị trí 61/63 tỉnh, thành phố, đạt 79,35 điểm). Trong 08 lĩnh vực chỉ số có 07 lĩnh vực tăng điểm và tăng bậc, 01 lĩnh vực giảm điểm và giảm bậc so với năm 2022.

Với Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), năm 2023, tỉnh Bắc Kạn đạt 43,35/80 điểm, tăng 0,91 điểm so với năm 2022 (năm 2022 đạt 42,44/80 điểm)xếp vị trí 22/63 tỉnh, thành phố, tăng 08 bậc so với năm  2022. Trong đó 04/8 chỉ số nội dung tăng điểm so với năm 2022; có 02 chỉ số nội dung ở nhóm đạt điểm cao (chỉ số Tham gia của người dân ở cấp cơ sở và Quản trị môi trường).

Về Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (SIPASnăm 2023 của tỉnh xếp vị trí 63/63 tỉnh, thành phố, giảm 03 bậc so với năm 2022

Về tồn tại, hạn chế, từ kết quả đánh giá chỉ số CCHC, Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), chỉ số sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) cho thấy mặc dù mức độ CCHC của tỉnh được cải thiện, tuy nhiên, mức độ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước vẫn đạt mức thấp. Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là việc  người dân, doanh nghiệp chưa thật sự hiểu đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước nên việc đánh giá còn đôi khi chưa đầy đủ. Điều đó đặt ra nhiều nhiệm vụ đối với toàn tỉnh trong việc tuyên truyền, giải thích đề người dân, doanh nghiệp hiểu và tham gia đánh giá tích cực, hiệu quả, đúng bản chất hơn đối với hoạt động của các cơ quan, đơn vị, địa phương. Đồng thời, cũng đề ra yêu cầu đối với mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi cán nhân cán bộ, công chức, viên chức trong việc đổi mới, sáng tạo, nâng cao hơn nữa hiệu quả chăm sóc, hỗ trợ và hướng dẫn người dân.

Đối với Đề án 06, Công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện Đề án 06 được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, bảo đảm đúng tiến độ theo lộ trình đặt ra tại Kế hoạch; Đến nay, tỉnh Bắc Kạn đã hoàn thành cung cấp 25/25 dịch vụ công theo Đề án số 06 và 13/28 dịch vụ công theo Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ trên cổng Dịch vụ công quốc gia; trong việc liên thông dữ liệu Giấy khám sức khoẻ lái xe, 08/08 các cơ sở đủ điều kiện khám sức khỏe để ngành giao thông vận tải giải quyết TTHC cấp đổi giấy phép lái xe; với việc liên thông dữ liệu cấp giấy chứng sinh, các cơ sở khám, chữa bệnh đã thực hiện liên thông dữ liệu Giấy chứng sinh lên cổng giám định BHYT trong vòng 04 giờ sau khi người bệnh được cấp Giấy chứng sinh theo đúng hướng dẫn của Bộ Y tế; tính đến ngày 08/5/2024, 100% công dân đủ điều kiện trên địa bàn tỉnh đã được cấp CCCD gắn chíp điện tử; lực lượng Công an đã thu nhận và kích hoạt 161.727 tài khoản (tăng 637 tài khoản so với tháng trước), đạt 59,6%…

Về tồn tại, hạn chế, theo báo cáo của lãnh đạo Công an tỉnh, việc triển khai thực hiện Bộ chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp còn gặp khó khăn; một số hệ thống thông tin Cơ sở dữ liệu đã được kết nối với Hệ thống thông tin giải quyết TTHC của tỉnh, tuy nhiên, giữa các CSDL chưa có sự kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu; việc triển khai 02 nhóm TTHC liên thông còn một số khó khăn vướng mắc như: Khả năng tiếp nhận, đồng bộ hồ sơ của các hệ thống chưa đáp ứng được yêu cầu, thời gian chờ quá lâu.

Ảnh: Các đại biểu trao đổi, phát biểu làm rõ những khó khăn, vướng mắc, đề xuất các giải pháp tại phiên họp
(Ảnh: Đăng Bách – Báo Bắc Kạn)

Thảo luận tại cuộc họp, đại diện các sở ngành, địa phương trao đổi nhiều ý kiến, xác định nguyên nhân và đề xuất các giải pháp để công tác CCHC, Chuyển đổi số và Đề án 06 đạt được những hiệu quả cao, được người dân đón nhận và tích cực hưởng ứng.

Phát biểu tại Phiên họp, đồng chí Phạm Duy Hưng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị: Các sở ngành, địa phương bám sát nhiệm vụ đề ra, chỉ đạo thực hiện sâu sát, quyết liệt, hiệu quả. Các đơn vị chủ động nâng cấp đường truyền, trang thiết bị, lựa chọn cán bộ có năng lực làm việc tại bộ phận “một cửa”, chỉ đạo cán bộ tiếp dân phải nâng cao trình độ, kỹ năng giao tiếp nhằm giải thích, hướng dẫn, hỗ trợ khi phục vụ Nhân dân. Sở, ngành chuyên môn tập trung số hoá ngành, kết nối liên thông cơ sở dữ liệu. Linh hoạt, đẩy nhanh tiến độ cài đặt phần mềm VneID cho người dân. Đưa chuyển đổi số vào trường học; xây dựng các tài liệu hướng dẫn trực quan, dễ hiểu trong thực hiện dịch vụ công trực tuyến.

Ảnh: Đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Duy Hưng phát biểu tại phiên họp

Kết luận Phiên họp, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đăng Bình tiếp thu ý kiến, kiến nghị của các ngành, địa phương, đồng thời khẳng định tỉnh sẽ ưu tiên nguồn lực để đầu tư cho những lĩnh vực quan trọng.

Đồng chí đề nghị các sở, ngành, địa phương tiếp tục phát huy kết quả đạt được, quyết tâm nâng hạng các chỉ số, cải thiện chỉ số một cách thực chất; phấn đấu vào nhóm giữa, nhóm trung bình cao trong thực hiện các nhiệm vụ CCHC, chuyển đổi số và Đề án 06.

Quyết liệt hơn trong chỉ đạo, thực hiện các nhiệm vụ hành chính công. Nâng cao tinh thần, thái độ, sự khéo léo và tinh tế trong giao tiếp ứng xử để tuyên truyền, hỗ trợ người dân hiểu và hài lòng hơn. Triển khai nhân rộng các mô hình hay, phát huy thêm nhiều sáng kiến, giải pháp CCHC, chuyển đổi số. Hoàn thiện, nâng cao chất lượng hạ tầng viễn thông. Phấn đấu năm 2024 là năm vì sự hài lòng của người dân. Các đơn vị đưa kết quả thực hiện chuyển đổi số, CCHC và Đề án 06 vào làm tiêu chí xét thi đua năm 2024.

Ảnh: Đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Đăng Bình phát biểu kết luận Phiên họp.

Tại phiên họp này, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã trao tặng Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh cho 06 tập thể, 05 cá nhân có thành tích xuất sắc trong Phong trào thi đua “Bắc Kạn đẩy mạnh chương trình chuyển đổi số” năm 2022 và năm 2023.

Ảnh: Trao tặng Bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong Phong trào thi đua “Bắc Kạn đẩy mạnh chương trình chuyển đổi số”
Nguồn: ict.backan.gov.vn




Chia sẻ :

BÀI VIẾT CÙNG CHUYÊN MỤC

Bài viết mới

View Counter

005575
Views Today : 31
Views This Month : 3238
Views This Year : 15382
Total views : 117680
Language
Skip to content