Ngày 8/6, ngay khi Quốc hội Việt Nam biểu quyết thông qua phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA), Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt nam đã tổ chức cuộc họp báo, thông tin thêm về các vấn đề liên quan đến Hiệp định.
Chia sẻ với báo chí, ngài Giorgio Aliberti – Đại sứ, Trưởng phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam cho rằng, việc Quốc hội Việt Nam chính thức phê chuẩn hai hiệp định này là sự kiện mang tính lịch sử trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU. Theo ông, hai hiệp định này rất có ý nghĩa, là thành tố vô cùng quan trọng, đóng góp và sự tăng trưởng quan hệ kinh tế thương mại giữa hai bên.
Đại sứ Giorgio Aliberti cho biết, EVFTA dự kiến sẽ được thực thi từ ngày 1/8/202. Kể từ ngày đầu tiên hiệp định có hiệu lực, mức thuế của 71% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ lập tức về 0. Trong 7 năm tiếp theo, hầu hết tất các dòng thuế xuất khẩu cùng sẽ về 0.
Ngài Giorgio Aliberti – Đại sứ, Trưởng phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam
Theo đó, lợi ích mà hai bên thu được sẽ là rất lớn. Đối với Việt Nam, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới WB, khi EVFTA có hiệu lực, đến năm 2030, GDP của Việt Nam sẽ tăng khoảng 2,4%; xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU sẽ tăng 20%; 800 nghìn người thoát nghèo nhờ hiệp định này. Ngân sách Việt Nam có thể hưởng lợi từ tăng trưởng GDP cao hơn và thu thuế cao hơn. Ngoài ra, hiệp định cũng sẽ có lợi cho người lao động, khi đóng góp vào tiêu chuẩn lao động, và cho môi trường.
Người tiêu dùng Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với các sản phẩm chất lượng cao, giá rẻ hơn từ EU. Nhà sản xuất có thể tiếp cận dễ dàng hơn với thị trường châu Âu vốn có sức mua lớn, đó cũng là cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đại sứ EU đánh giá, đây là thời cơ vàng dành cho các doanh nghiệp Việt Nam để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đặc biệt vào thời điểm hậu dịch Covid-19, chúng ta nhận ra rằng không nên chỉ tập trung vào một mối quan hệ thương mại mà cần phải đa dạng hóa. Trong khi đó, Việt Nam là một nước có nhiều lợi thế so sánh với các nước trong khu vực khi EVFTA được thực thi, bởi trong khu vực ASEAN, EU chỉ có FTA với Sigapore nhưng nước này là một nền kinh tế dịch vụ còn Việt Nam chủ yếu là sản xuất hàng hóa. Theo đó, Việt Nam là nước có lợi thế số 1 khi tiếp cận thị trường EU.
Trong quan hệ thương mại, xu hướng này đã diễn ra từ nhiều năm nay. Trong giai đoạn 2001-2018, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU tăng 16%, tuy nhiên, khi so sánh với tỉ trọng thương mại toàn cầu thì dường như đang có xu hướng nhỏ dần đi. Vì vậy, Việt Nam cần nắm bắt tốt được cơ hội từ EVFTA mang lại.
Tuy nhiên, theo Đại sứ Giorgio Aliberti, để tận dụng được các cơ hội từ EVFTA, thách thức cho Việt Nam chính là việc Chính phủ phải tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cải thiện các quy định, áp dụng công nghệ số để tinh giản các thủ tục, cùng với đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Ông nhấn mạnh, thách thức đặt ra cho Chính phủ và các bộ ngành là tạo ra cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư như việc số hóa các quy trình hoặc đơn giản hóa các thủ tục hành chính cũng cần phải được thúc đẩy.
Bên cạnh đó, các rào cản phi thuế cũng là một thách thức cần chú ý, vì chúng có thể khó khăn ngang với các rào cản thuế quan. “Trong hiệp định đã có những điều khoản hướng tới gỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, và thách thức nằm sẽ ở việc thực thi cụ thể” – Đại sứ cho hay.
Trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến hiệp định EVIPA, khi hiệp định đi vào thực thi, sau này có thể dẫn đến các vụ kiện giữa nhà đầu tư và Chính phủ, đại sứ EU cho rằng, việc giải quyết tranh chấp là yếu tố quan trọng trong mọi thỏa thuận thương mại. Việt Nam vốn cũng có các thỏa thuận song phương với các thành viên EU về điều này, nhưng EVIPA là hiệp định rộng hơn và bao trùm các thỏa thuận trước đây. “Đầu tư từ nước ngoài chỉ đến nếu có hệ thống giải quyết tranh chấp rõ ràng, và đây là phần bình thường của thương mại quốc tế. Khi có các hệ thống luật pháp khác nhau, sẽ có trường hợp nhà đầu tư và chính phủ bất đồng” – Đại sứ nhấn mạnh.
Thực tế, bản thân EVFTA cũng đã có yếu tố liên quan đến đầu tư, việc thự thi EVFTA đã có cơ hội đầu tư trong đó. Theo đó, để tận dụng EVFTA và thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng cao từ EU, Đại sứ EU cho rằng, các chính sách của Việt Nam cần đặt trong bối cảnh mang tính toàn diện, không chỉ mang lại những ưu đãi cắt giảm thuế đối với các doanh nghiệp hoạt động tại đây. Điều quan trọng là tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn, có sự minh bạch trong thủ tục hành chính, thực thi chính sách của mình, có thể có đoán định từ phía nhà đầu tư đối với chính sách của Việt Nam, cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp hoạt động hiệu quả.
Bên cạnh việc phê chuẩn hai hiệp định, Quốc hội cũng thông qua công ước số 105 của tổ chức Lao động quốc tế tại Quốc hội. Đại sứ EU cho rằng điều này vô cùng có ý nghĩa vì đây là một nội dung mà phía EU yêu cầu Việt Nam xem xét thông qua khi các bên cân nhắc việc phê chuẩn Hiệp định. Ngoài công ước này, còn hai công ước cốt lõi nữa của ILO mà Việt Nam cũng đang trong quá trình chuẩn bị phê chuẩn và tham gia trong tương lai gần. Việc thực thi các công ước này sẽ thúc đẩy Việt Nam có các tiêu chuẩn công ước xã hội và tiêu chuẩn lao động cao hơn.